Bệnh cúm gia cầm là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm do virus cúm type A gây ra, ảnh hưởng đến cả loài chim và động vật có vú, bao gồm cả con người. Tại Việt Nam, các chủng virus cúm gia cầm thể độc lực cao đã được xác định bao gồm H5N1 và H5N6.
Ảnh hưởng đối với gia cầm
- Gà: Khi bị nhiễm cúm gia cầm, gà thường mắc bệnh rất nặng, có thể dẫn đến tỷ lệ tử vong cao.
- Vịt: Vịt thường mang mầm bệnh nhưng ít khi biểu hiện triệu chứng lâm sàng rõ rệt. Do đó, vịt là nguồn chủ yếu gieo rắc mầm bệnh ra môi trường.
Nguy cơ đối với con người
Một số chủng virus cúm gia cầm, mặc dù không gây bệnh cho gia cầm, nhưng có khả năng lây truyền sang người và gây ra các biến chứng nghiêm trọng, thậm chí là tử vong. Điều này tạo ra mối nguy hiểm đáng kể cho sức khỏe cộng đồng, đòi hỏi phải có các biện pháp kiểm soát và phòng ngừa hiệu quả.
ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỂ HỌC
Loài nhiễm bệnh bao gồm gà, vịt, ngan, ngỗng, đà điểu, các loài chim khác và động vật có vú ở mọi lứa tuổi. Bệnh có khả năng lây lan sang con người.
Tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong phụ thuộc vào loài vật bị nhiễm, độc lực của virus gây bệnh, độ tuổi của động vật mắc bệnh và điều kiện môi trường. Virus có độc lực cao có thể làm cho một số loài gia cầm chết đến 100%.
ĐƯỜNG LÂY TRUYỀN
Virus cúm gia cầm nhân lên trong đường hô hấp và đường tiêu hóa của gia cầm nhiễm bệnh, sau đó bài thải qua phân, nước mũi và nước bọt. Thời kỳ lây truyền thường kéo dài từ 3 đến 5 ngày, đôi khi lên đến 7 ngày kể từ khi xuất hiện triệu chứng. Bệnh có thể lây qua hai phương thức:
- Lây truyền trực tiếp: Gia cầm khỏe mạnh tiếp xúc với gia cầm hoặc động vật nhiễm bệnh.
- Lây truyền gián tiếp: Qua các dụng cụ chăn nuôi, thức ăn, nước uống, lồng nhốt, quần áo, phương tiện vận chuyển bị nhiễm phân hoặc dịch tiết chứa virus cúm từ động vật nhiễm bệnh.
TRIỆU CHỨNG
Gia cầm mắc bệnh cúm thường có các biểu hiện như run rẩy, lắc đầu, hoặc tụ thành từng đám. Các triệu chứng liên quan đến đường hô hấp bao gồm ho, thở khò khè, phù đầu, chảy nước mũi, mào tím tái, xuất huyết dưới da, và phân loãng có màu trắng hoặc trắng xanh.
Một số con có thể bị sưng khớp, sưng phù đầu và mặt, sưng mí mắt, mào và tích tím tái, và xuất huyết dưới da, đặc biệt ở những vùng da không có lông. Tiêu chảy với phân loãng màu trắng hoặc trắng xanh cũng thường xuất hiện. Đối với những con đang đẻ, năng suất trứng giảm rõ rệt, thậm chí có thể đẻ trứng không có vỏ.
PHÒNG BỆNH
Chuồng nuôi gia cầm và thủy cầm cần đảm bảo diện tích phù hợp và phải được đặt cách xa chuồng nuôi động vật khác, khu dân cư, đường giao thông lớn, cũng như các khu công cộng như chợ, cơ sở giết mổ động vật, trường học, bệnh viện. Cần có hố khử trùng và tường rào xây cao ít nhất 2 m. Khu hành chính của trại cần được tách biệt với khu chăn nuôi.
Trại nuôi gia cầm cần phân chia rõ ràng thành các khu vực như khu ấp nở xuất bán, khu gà con, gà hậu bị, và gà đẻ. Cần có khu riêng biệt để nuôi gà mới nhập về. Không nên nuôi nhiều loại gia súc, gia cầm trong cùng một trại. Đối với gà nuôi thả vườn tự do, nên sử dụng lưới để quây lại thành khu, thuận lợi cho việc vệ sinh và khử trùng như một trại kín.
Trong quá trình chăn nuôi, nên thực hiện cùng nhập con giống và cùng xuất bán trong một thời điểm. Không nên mua hoặc nhập thêm gia cầm vào trại trong khi nuôi. Sau mỗi đợt xuất bán hết gia cầm, cần vệ sinh, tiêu độc, khử trùng và để trống chuồng trong một thời gian trước khi thả đợt mới. Gia cầm giống mới nhập về cần được cách ly và kiểm soát ít nhất 14 ngày.
Mỗi khu trại chăn nuôi cần có dụng cụ và thiết bị chăn nuôi riêng, không nên mang các sản phẩm thịt gia cầm vào trại để sử dụng. Cần có hố sát trùng và dụng cụ phun xịt ở cổng trại. Khu chăn nuôi cần có các khay đựng thuốc sát trùng và hàng ngày vệ sinh dụng cụ chăn nuôi như xô, chậu, máng ăn, và máng uống.
Hàng tuần, cần vệ sinh, khử trùng tiêu độc toàn bộ khu vực chuồng trại, phát quang, khơi thông cống rãnh, rắc vôi bột. Có thể phun xịt thuốc sát trùng và xử lý kỹ chất thải trong trại bằng một số dung dịch sát thuốc sát trùng… Chất độn chuồng thay ra cần được khử trùng hoặc chôn, đốt.
Cần hạn chế khách tham quan và yêu cầu người vào khu chăn nuôi sử dụng quần áo bảo hộ lao động riêng và hạn chế đi lại. Đồng thời, cần có biện pháp ngăn chặn các động vật như chó, mèo, chim, chuột và côn trùng xâm nhập vào chuồng nuôi.
Gia cầm đã tiêm phòng vaccine cúm gia cầm chỉ được xuất bán hoặc giết thịt sau khi tiêm đủ 14 ngày và phải đảm bảo gia cầm khỏe mạnh, không có biểu hiện bệnh.
BIỆN PHÁP XỬ LÝ
Khi phát hiện gia cầm bị nhiễm bệnh, người nuôi cần lập tức thông báo cho cán bộ thú y cơ sở.
Không bán tháo, không ăn thịt gia cầm trong đàn bị bệnh, và không vứt xác gia cầm chết một cách bừa bãi.
Cần bao vây ổ dịch và tiêu hủy toàn bộ gia cầm chết, mắc bệnh, cũng như các gia cầm khác trong đàn. Có thể đốt bằng củi hoặc xăng dầu, nếu có điều kiện thì đốt trong các lò chuyên dụng. Nếu không, đào hố chôn sâu với đáy và thành hố được lót nilông. Gia cầm tiêu hủy cần được đựng trong bao dày có chứa chất sát trùng, buộc chặt miệng và cho xuống hố. Đảm bảo bề mặt gia cầm chôn cách mặt đất tối thiểu 1m. Trước khi lấp đất, rải một lớp vôi bột hoặc phun dung dịch Formol 5% hoặc NaOH 3-5%.
Phun sát trùng và tiêu độc toàn bộ khu vực chăn nuôi liên tục 2-3 lần trong tuần đầu. Chuồng nuôi cần được để nguyên trạng, phun thuốc sát trùng và ủ 5-7 ngày. Quét dọn, thu gom và tiêu hủy phân rác, chất độn chuồng.
Rửa sạch chuồng trại và các dụng cụ chăn nuôi, để khô, sau đó phun sát trùng hai lần, cách nhau 10-15 ngày bằng một trong các dung dịch: Nước vôi tôi 10%, NaOH 2-3%, formol 2-3%, hoặc crezin 5%. Nước rửa chuồng trại và dụng cụ chăn nuôi phải được thu gom vào hố và xử lý bằng cách thêm vôi đạt nồng độ 10% trước khi đưa ra ngoài.
“Virus cúm gia cầm lây lan qua tiếp xúc trực tiếp với gia cầm bị nhiễm bệnh hoặc qua thức ăn, nước, thiết bị và quần áo có mầm bệnh. Do đó, đảm bảo an toàn sinh học là phương thức phòng ngừa đầu tiên và quan trọng nhất ở cấp độ trang trại.”
Nguồn: Nguoichannuoi.vn (Lê Loan)