GÀ THIẾU RIBOFLAVIN (VITAMIN B2) TRÊN GÀ VÀ CÁC HỆ LỤY VỀ SAU

Thiếu Riboflavin (Vitamin B2) trên gà

Nhiều mô có thể bị ảnh hưởng do thiếu riboflavin (Vitamin B2), mặc dù biểu mô và vỏ myelin của một số dây thần kinh chính là mục tiêu chính. Những thay đổi ở thần kinh đùi tạo ra tê liệt “ngón chân cong” ở gà đang phát triển. Quá trình sản xuất trứng bị ảnh hưởng, và trứng thiếu B2 không nở. Khi khẩu phần ăn vô tình thiếu toàn bộ vitamin, thì dấu hiệu thiếu B₂ xuất hiện đầu tiên. Khi gà con được cho ăn khẩu phần thiếu B2, chúng vẫn ăn ngon miệng, nhưng chậm lớn, yếu ớt, hốc hác, và tiêu chảy ở giữa tuần đầu tiên và tuần thứ hai. Những con gà bị thiếu sẽ miễn cưỡng di chuyển trừ khi bị ép buộc, và thường đi bằng khuỷu với sự hỗ trợ của đôi cánh. Các cơ ở chân bị teo và nhão, và da khô và sần sùi. Ở giai đoạn thiếu nặng, gà con nằm sấp với 2 chân duỗi thẳng, đôi khi ngược chiều nhau. Các dấu hiệu đặc trưng của thiếu hụt B2 là sự mở rộng của dây thần kinh đùi và dây thần kinh cánh; dây thần kinh đùi thường cho thấy tác động rõ rệt nhất. Kiểm tra mô học của các dây thần kinh bị ảnh hưởng cho thấy những thay đồi thoái hóa trong vỏ myelin; khi nghiêm trọng sẽ chèn ép dây thần kinh. Điều này tạo ra một kích thích vĩnh viễn, gây tê liệt ngón chân cong.

Các dấu hiệu thiếu B₂ ở gà mái là giảm sản lượng trứng, tăng tỉ lệ chết phôi, và tăng kích thước hàm lượng chất béo ở gan. Khả năng nở giảm trong vòng 2 tuần khi gà mái được cho ăn khẩu phần thiếu B2, nhưng trở lại gần như bình thường khi B2 được phục hồi. Các phôi bị ảnh hưởng sẽ lùn đi và có biểu hiện khiếm khuyết đặc trưng là “dạng chùy”. Hệ thống thần kinh của những phôi này cho thấy những thay đồi thoái hóa rất giống những thay đồi được mô tả ở gà con bị thiểu B2. Dạng chủy thường được thấy trong các trường hợp khả năng nở kém, khi gả con “bị loại” hoặc chết phôi cho thấy tình trạng này, ngay khi chế độ ăn của gà giống dường như có đủ B2. Có ít bằng chứng gợi ý xảy ra tình trạng dạng chủy nhiều hơn ở các trang trại chọn “trứng sàn” để ấp.

Các dấu hiệu thiếu hụt B2 đầu tiên xuất hiện sau 10 ngày ấp, khi phôi bị hạ đường huyết và tích tụ các chất trung gian của quá trình oxy hóa acid béo. Mặc dù các enzyme phụ thuộc flavin bị ức chế do thiếu hụt riboflavin, nhưng tác động chính dường như là làm suy yếu quá trình oxy hóa acid béo, đây là một chức năng quan trọng ở phôi đang phát triển. Một đặc điểm lặn trên nhiễm sắc thể thường ngăn chặn sự hình thành protein liên kết với riboflavin cần thiết để vận chuyển riboflavin đến trứng. Mặc dù những con trưởng thành có vẻ bình thường, nhưng trứng của chúng không nở được bất kể hàm lượng riboflavin có trong khẩu phần. Khi trứng trở nên bị thiếu riboflavin, lòng trắng trứng mất màu vàng đặc trưng. Trên thực tế, điểm màu lòng trắng đã được sử dụng để đánh giá tình trạng riboflavin của gia cầm.

Gà con nhận khẩu phần chỉ thiếu một phần riboflavin có thể phục hồi một cách tự nhiên, cho thấy rằng nhu cầu giảm một cách nhanh chóng theo tuổi. Một liều 100 mcg là đủ để điều trị cho gà con thiếu riboflavin, sau đó kết hợp với một lượng thích hợp trong khẩu phần ăn. Tuy nhiên, khi dị tật cong ngón chân kéo dài, tổn thương không được khắc phục xảy ra ở dây thần kinh đùi, và việc cấp riboflavin không còn khả năng chữa trị.

Hầu hết các khẩu phần chứa đến 10 mg riboflavin/ kg. Điều trị có thể được thực hiện bằng 2 liều 100 mcg/ ngày cho gà con hoặc gia cầm, sau đó là một lượng riboflavin đầy đủ trong thức ăn.

Nhu cầu vitamin B2 ở giống gà đẻ Leghorn 0-6 tuần tuổi là 3,6 mg/kg thức ăn, ở gà thịt cần 5mg/ kg thức ăn để tăng trưởng nhanh, ở gà đẻ cần mức bổ sung 4mg/ kg thức ăn ở gà hậu bị.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *